
Đề nghị Hà Nội, TPHCM tập trung nguồn lực kiểm soát phương tiện giao thông
25/09/2025
Hướng dẫn dùng VNeID tra cứu danh sách đối tượng bị truy nã trên toàn quốc
25/09/2025Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành Thông tư 19/2025 về khen thưởng và kỷ luật học sinh. Theo đó, một số biện pháp kỷ luật trước đây như cảnh cáo, đình chỉ hay buộc thôi học có thời hạn được bãi bỏ. Mức kỷ luật nặng nhất đối với học sinh THCS, THPT chỉ còn là viết bản kiểm điểm; với học sinh tiểu học là yêu cầu xin lỗi. Đây là sự thay đổi quan trọng sau mấy chục năm duy trì quy định cũ, đánh dấu bước chuyển từ tư duy “loại trừ” sang “phục hồi” và giáo dục hành vi ngay trong nhà trường.
Mức độ của biện pháp kỷ luật mới đi theo xu hướng bảo vệ quyền trẻ em, khi giáo dục được xem là môi trường nuôi dưỡng nhân cách chứ không phải nơi áp đặt “sự loại trừ” trong xã hội. Việc giảm các hình thức trừng phạt nặng giúp hạn chế nguy cơ học sinh bị đẩy ra ngoài hệ thống giáo dục, đồng thời nhấn mạnh yếu tố tự nhận ra lỗi lầm và sửa sai.
Tuy nhiên, từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố dự thảo cho đến khi ban hành chính thức (Thông tư 19 ban hành ngày 15/9, có hiệu lực từ 31/10), biện pháp “kỷ luật nhẹ” đã gây tranh luận, nhiều người ủng hộ cách tiếp cận của Bộ, song rất nhiều ý kiến lại cho rằng việc yêu cầu viết bản kiểm điểm hay xin lỗi không đủ sức răn đe và duy trì kỷ cương trong môi trường học đường vốn nhiều áp lực hiện nay.

Hình ảnh học sinh túm tóc, ghì đầu giáo viên ngay trong lớp học ở Hà Nội (Ảnh chụp từ clip).
Đặc biệt ngay khi Thông tư 19 vừa được ban hành, sự việc học sinh túm tóc, quật ngã cô giáo tại một trường phổ thông ở Hà Nội càng khiến dư luận băn khoăn. Nhiều ý kiến đồng tình với cách đặt vấn đề của Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội, đó là nhấn mạnh quan điểm bảo vệ học sinh, song phải có cách đối xử phù hợp. Với học sinh có sự lệch chuẩn lớn, nếu chỉ dùng biện pháp nhẹ nhàng thì rất khó giải quyết.
Nhìn ra thế giới, đình chỉ học và buộc thôi học là biện pháp kỷ luật được dùng ở nhiều hệ thống giáo dục, nhưng mức độ phổ biến rất khác nhau giữa các quốc gia. Xu hướng là nhiều nước đã và đang áp dụng các lựa chọn thay thế như kỷ luật tích cực (hình thức kỷ luật tạo điều kiện cho học sinh sửa sai, tuyệt đối tránh dùng bạo lực hay lời nói có tính xúc phạm), can thiệp hành vi thay vì buộc thôi học… Ở Mỹ, theo số liệu từ Office for Civil Rights (một cơ quan thuộc Bộ Giáo dục Hoa Kỳ trước đây), chỉ riêng năm học 2020–2021 đã có hơn 638.000 học sinh bị đình chỉ và hơn 28.000 em bị buộc thôi học. Trong khi Scotland những năm gần đây đã hạn chế tối đa biện pháp buộc thôi học. Tại Trung Quốc từ năm 2020 đã cấm trừng phạt thể xác và xúc phạm nhân phẩm học sinh. Ở Thái Lan, từ năm 2025 cấm toàn diện mọi hình thức trừng phạt thân thể và tinh thần.
Một số nghiên cứu cho thấy, biện pháp đình chỉ hay buộc thôi học thường để lại hệ quả tiêu cực lâu dài cho học sinh. Những em bị đình chỉ học hoặc buộc thôi học có nguy cơ cao bỏ học vĩnh viễn, sa ngã và vi phạm pháp luật. Chính vì vậy cách tiếp cận theo hướng kỷ luật tích cực được nhiều tổ chức quốc tế ủng hộ, vì bảo đảm quyền được học tập liên tục, giữ gìn sức khỏe tinh thần và nhân phẩm của trẻ em. Thông tư 19/2025 của Việt Nam nằm trong dòng chảy ấy, nhưng bài học từ nhiều nước cũng cảnh báo rằng thay đổi hình thức kỷ luật mà không có cơ chế thực thi hiệu quả thì rất dễ biến thành hình thức. Một bản kiểm điểm hay lời xin lỗi có thể chỉ dừng ở thủ tục, không chạm tới thay đổi hành vi, đặc biệt với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng.
Thực tế ở Anh là một lời nhắc nhở. Dù có những chính sách giảm trừng phạt, tình trạng thiếu nhân lực tư vấn khiến các trường buộc phải quay lại biện pháp đình chỉ học như “giải pháp cuối cùng”. Ở Việt Nam, nguy cơ này còn lớn hơn khi lớp học đông, giáo viên chưa được đào tạo bài bản về tư vấn tâm lý, ngân sách hạn hẹp. Nếu chỉ “nhẹ hóa” kỷ luật mà không có công cụ thay thế, hệ thống giáo dục trong trường học có thể mất kiểm soát.
Một khía cạnh khác là công bằng xã hội. Bằng chứng từ một số nước cho thấy, kỷ luật nặng thường rơi vào nhóm học sinh dễ tổn thương, như học sinh khuyết tật hay nhóm học sinh da màu. Ở Việt Nam, nếu không có cơ chế giám sát công bằng, học sinh thuộc nhóm yếu thế dễ bị kỷ luật lặp đi lặp lại mà không nhận được hỗ trợ cần thiết. Ngược lại, một số em có điều kiện lại dễ dàng vượt qua hình phạt nhờ sự can thiệp từ gia đình. Thậm chí, với kỷ luật quá nhẹ, một số học sinh có thể coi thường quy định, khiến phụ huynh và cộng đồng phản ứng tiêu cực, làm giảm niềm tin vào nhà trường.
Hàn Quốc cung cấp một mô hình đáng chú ý. Trước tình trạng bạo lực học đường, từ năm 2024, học sinh có tiền sử bạo lực bị ghi nhận trong hồ sơ xét tuyển đại học. Cách làm này tạo “chi phí dài hạn” cho hành vi nghiêm trọng, nhưng vẫn để ngỏ cơ hội phục hồi thông qua các chương trình hỗ trợ. Việt Nam có thể cân nhắc một cơ chế kết hợp tương tự, tránh việc những hành vi bạo lực hay quấy rối nghiêm trọng chỉ bị xử lý bằng một bản kiểm điểm.
Ở góc nhìn chính sách, Thông tư 19/2025 thể hiện nỗ lực bảo vệ quyền trẻ em và phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam. Theo lý giải của đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngoài các biện pháp kỷ luật trong Thông tư này, với mỗi vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ, hậu quả gây ra mà mỗi cá nhân đều phải chịu các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật như luật hình sự, luật tư pháp người chưa thành niên và các luật hiện hành khác. Tuy vậy, cụ thể trong môi trường học đường, để chính sách thành công, cần một hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện.
Kỷ luật tích cực không chỉ là “giảm hình phạt” mà phải là thiết kế lại cơ chế quản lý hành vi trong nhà trường, từ hồ sơ theo dõi vi phạm, các chương trình tư vấn, hòa giải, cho tới đội ngũ cố vấn tâm lý và hệ thống báo cáo minh bạch. Nếu thiếu những yếu tố này, chính sách có thể quá “mềm”, không đủ sức răn đe, đặc biệt trong những vụ bạo lực học đường nghiêm trọng hay hành vi tái phạm.
Đặt trường hợp chúng ta là phụ huynh, rõ ràng không muốn con em mình phải học tập trong một môi trường có những học sinh lặp đi lặp lại vi phạm, gây ảnh hưởng đến việc học tập của cả lớp mà giáo viên “bất lực”, không thể xử lý được. Ngành giáo dục cần nghiên cứu xây dựng hồ sơ theo dõi vi phạm của học sinh có phân cấp, vừa giúp can thiệp sớm, vừa tránh tạo “án tích” vĩnh viễn cho học sinh.
Với các hành vi vi phạm từ mức trung bình đến nghiêm trọng cần đi kèm biện pháp phục hồi bắt buộc như hòa giải, tư vấn tâm lý, rèn kỹ năng xã hội. Nguồn lực chăm sóc toàn diện trong trường học phải được tăng cường thông qua đội ngũ cố vấn học đường hoặc liên kết với trung tâm tư vấn. Với các hành vi nghiêm trọng, có thể cân nhắc đình chỉ ngắn hạn hoặc chuyển lớp, nhưng phải gắn với lộ trình phục hồi. Đồng thời, giáo viên cần được đào tạo về quản lý hành vi, kỹ năng hòa giải và phối hợp với phụ huynh.
Tóm lại, Thông tư 19/2025 là một bước tiến, nhưng mới chỉ là nửa chặng đường. Nó khẳng định cam kết chuyển từ “loại trừ” sang “phục hồi”, bảo đảm trẻ em không bị đẩy ra khỏi trường học, song nếu thiếu nguồn lực và cơ chế hỗ trợ, chính sách sẽ khó đạt hiệu quả và có thể tạo thêm bất công. “Kỷ luật nhẹ” chỉ thật sự thành công khi đi cùng một hệ sinh thái phục hồi toàn diện, nơi gia đình, nhà trường và cộng đồng cùng đồng hành. Khi đó, giáo dục mới vừa bảo vệ quyền trẻ em, vừa giữ vững kỷ cương và văn hóa học đường.
Đồng thời, chính sách cũng nên tiếp cận theo hướng mở, không nên đóng cứng, nếu các biện pháp “kỷ luật nhẹ” là không đủ, thì nên tạo điều kiện cho nhà trường và giáo viên được áp dụng biện pháp nghiêm khắc hơn.
Tác giả: Bà Đặng Thị Thúy Diễm tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Phân tích chính sách thuộc ngành Chính sách công tại trường Đại học Fulbright Việt Nam, đồng thời sở hữu bằng Thạc sĩ Xã hội học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM. Hiện bà là nghiên cứu viên tại Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!